Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Những bí ẩn về thành nhà Hồ


Di sản thế giới thành nhà Hồ (Thanh Hóa) ẩn chứa rất nhiều câu hỏi chưa có lời giải, trong đó có chuyện thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị mất đầu và ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao…

Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Thành được Hồ Quý Ly cho xây vào mùa xuân năm 1397, còn gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội). Nơi đây từng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa vào cuối triều Trần và kinh đô của nước Đại Ngu trong khoảng 7 năm, từ 1400 đến 1407.
Sử cũ chép, vào năm 1397, đất nước đứng trước nạn xâm lăng của nhà Minh, Hồ Quý Ly đã lệnh cho quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tĩnh đến thị sát vùng đất Thanh Hoá để xây dựng thành trì, chuẩn bị cho việc định đô. Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay thuộc xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng người trong thiên hạ xa lánh, đoạn tuyệt với nhà Trần.

Vùng đất được chọn có địa thế hiểm yếu, có đường đi từ Bắc vào Nam và sang Lào. Xung quanh được án ngữ bởi nhiều ngọn núi cao, hai mặt nam, bắc có sông Mã và sông Bưởi chảy qua.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. Trong đó, công trình đồ sộ nhất và còn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay là Hoàng thành. Toàn bộ mặt ngoài tường thành và bốn cổng chính được xây bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới hơn 6 m, ước nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu.
Theo sử sách ghi lại trong thành có nhiều công trình như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, trải qua hơn 6 thế kỷ tồn tại với rất nhiều tác động của thiên nhiên và con người, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy.
Các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá, kiến trúc của Thành nhà Hồ rất khoa học, với các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Điều đặc biệt là công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà quá trình xây dựng chỉ vỏn vẹn ba tháng (từ tháng 1/1397 đến tháng 3/1397).
Thời ấy chưa có công nghệ vận chuyển hay ghép đá gắn xi măng, vậy làm sao để những bức tường thành được xếp vuông vắn, thẳng đứng và tồn tại đến ngày nay? Điều gì đã giúp người thợ xưa với công cụ thô sơ lại có thể vận chuyển và xây nên tường thành bằng những phiến đá khổng lồ?
Câu trả lời được hé lộ phần nào khi người ta tìm thấy hàng trăm viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây) trong nhiều lần khai quật khảo cổ. Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí xây thành hàng chục km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến đá lên cao để xây thành.
Ngoài kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá mất đầu cũng là câu hỏi hiện chưa có lời giải thỏa đáng. Nằm ở trung tâm tòa thành, hai con rồng mất đầu nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Nhà Hồ thất thủ, đôi rồng đá mất tích bí ẩn. Năm 1938, tượng rồng đầu tiên được một nông dân phát hiện khi đang cày ruộng trong thành. Cho rằng đã là tượng rồng ở cung vua thì nhất thiết phải có cặp nên các chức dịch trong làng đã cho đào bới khắp vùng mới tìm được tượng rồng đá thứ hai.

Cặp rồng được chạm khắc rất tỉ mỉ. Thân rồng thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Rồng có bốn chân, mỗi chân ba móng với các túm lông lượn mềm mại. Đầu rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn phần bờm dài lượn chín nếp. Các khoảng trống dưới bụng và ô tam giác ghép thành bậc đều được chạm hoa cúc và móc hoa lượn mềm.
Theo nhiều nhà nghiên cứu điêu khắc, đôi rồng này là loại được chạm khắc trên thềm bậc của các cung điện như hiện thấy ở điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa).
Ai đã chặt đầu rồng, câu hỏi này có nhiều lý giải. Người cho rằng sau khi xâm lược, quân Minh đã chặt đầu rồng, biểu tượng quyền lực của nhà Hồ để thể hiện sự diệt vong của vương triều này. Lại có người cho rằng việc này là do những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ gây ra.
Lại có ý kiến rằng thời kỳ mới chiếm đóng Việt Nam, người Pháp bắt dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa trên con đường dẫn tới đôi rồng đá. Người dân bức xúc nên chặt đầu rồng? Còn một cách lý giải lưu truyền trong dân gian rằng có thời kỳ làng Xuân Giai (nằm ở cổng Nam, thuộc xã Vĩnh Tiến) thường xuyên bị cháy nhà. Người dân cho rằng do rồng quay đầu về làng phun lửa gây cháy nên đã chặt đầu rồng.
Người dân xứ Thanh còn truyền tai câu chuyện nhuốm màu giang hồ như sau. Nghe đồn trong mắt rồng ở cung cấm thường được vua chúa cho yểm rất nhiều vàng ngọc châu báu, một đêm lợi dụng lúc trời đổ mưa như trút nước, trong thành hoang vắng không bóng người qua lại, hàng chục đạo tặc bí mật chặt đầu đôi rồng mang đi xa đập nát để tìm ngọc quý. Cũng chẳng ai nhớ đó là năm nào.
Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Hội sử học Thanh Hoá) đánh giá đôi rồng đá ở thành Tây Đô thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất hiện còn lại ở Việt Nam. Đôi rồng thể hiện nghệ thuật chạm khắc thời Trần lúc hưng thịnh với đặc điểm khỏe khoắn, đầy đặn. “Sử cũ không ghi chép cũng không ai biết đôi rồng đá bị mất đầu từ bao giờ, nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận”, tiến sĩ Đấu nói.
Xung quanh ngôi thành đá hơn 600 năm tuổi vẫn còn vô số bí ẩn đang chờ giải mã. Mới đây nhất, trong quá trình tôn tạo, phục dựng di tích đàn tế Nam Giao thuộc di sản thành Nhà Hồ, các nhà khảo cổ đã phát hiện ngôi mộ táng khổng lồ, bên trong có bộ xương còn tương đối nguyên vẹn.

Bộ xương ở tư thế nằm ngửa, được đặt trong bia mộ quây bằng đá. Vị trí của ngôi mộ đá này nằm dưới lòng bức tường bao vòng ngoài của đàn tế Nam Giao, sát chân núi Đốn Sơn. Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ nhận định, đây là bộ xương trâu. Nhưng vì sao lại mai táng trâu ở vị trí trang trọng là đàn tế, nơi được coi là chốn linh thiêng, thì vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Tiến sĩ Đỗ Quang Trọng, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ, cho rằng đối với người phương Đông, quan niệm “tam sinh” (ba vật dùng trong lễ tế thần gồm trâu, dê, ngựa) đã trở thành luật bất thành văn và ăn sâu trong lòng người Việt. Rất có thể trước khi khởi dựng đàn tế, Hồ Quý Ly đã cho cúng trâu để tế thần linh. Mặt khác, xứ Thanh thuộc hạ lưu sông Mã, là vùng canh tác lúa nước màu mỡ phì nhiêu hàng nghìn năm nay, nên con trâu luôn được đánh giá cao. Hồ Quý Ly cho cúng tế thần linh bằng trâu với mong muốn dân được no đủ, mùa vụ bội thu.
Hiện ngôi mộ đá táng trâu vẫn nằm nguyên vị trí cũ. Theo kế hoạch tới đây số cốt xương của con trâu được tế lễ hơn 600 năm về trước sẽ được khai quật toàn bộ. Mô hình mộ đá sẽ được dựng lại để đảm bảo thống nhất toàn vẹn của di tích đàn tế trong quần thể di sản Thành nhà Hồ.
Thành nhà Hồ nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Trải qua hơn 600 năm tồn tại, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Những dấu tích nền móng của cung điện xưa giờ vẫn đang nằm ẩn mình phía dưới những ruộng lúa của người dân quanh vùng. Ngày 27/6/2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris (Pháp), thành nhà Hồ đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Lê Hoàng

 


Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Cây roi gia pháp thời toàn cầu hóa

28-6 là Ngày gia đình Việt Nam. Người ta sinh ra cái ngày này để làm gì!? Phải chăng là để nhắc nhở lẫn nhau về những giá trị của “văn hóa gia đình”, về cái gọi là “gia đạo”? Gia đạo, từ ngàn xưa đã quan trọng; trong bối cảnh nhiều xáo trộn như ngày nay lại càng quan trọng hơn và là thứ không thể bị lãng quên. Toàn cầu hóa cuốn chúng ta vào một cơn lốc xoáy mãnh liệt, kèm theo bối cảnh khủng hoảng về nhiều mặt, đẩy những đứa trẻ ra khỏi vòng kiểm soát của cha mẹ một cách nhanh chóng. Cùng với nó là khoảng cách thế hệ ngày càng bị kéo dãn bởi những thay đổi như vũ bão của thời cuộc. Tình thương yêu không bao giờ mất đi, nhưng sự đối thoại giữa ông bà, cha mẹ và con cái đang ngày càng khó khăn hơn vì khoảng cách thế hệ quá lớn này. Sự trưởng thành của một con người phụ thuộc vào ba thành tố: gia đình, nhà trường và xã hội. Nhưng khi nhà trường hiện nay vẫn còn rất nhiều điều để lo ngại như nạn chạy trường, mua điểm, gian lận thi cử, bạo lực học đường…; khi xã hội đang hứng chịu nhiều cú sốc văn hóa và vô số biến tướng về cách sống, cách hành xử… thì hi vọng lớn nhất và cũng là giải pháp chắc chắn nhất cho việc dạy con và cứu con mình khỏi những lệch lạc của cuộc sống chính là gia đình. Cha mẹ có thể khó khăn trong việc đối thoại với con do khoảng cách thế hệ, nhưng việc xây dựng gia đạo như một “người thầy lớn” giúp dạy con nên người là việc mà các ông bố bà mẹ hoàn toàn có thể chủ động được. Gia đạo, có người nói đó là “con đường” của một gia đình. Con đường ấy có thể được thừa hưởng từ các thế hệ trước, hay do chính thế hệ của mình ý thức tạo dựng nên. Còn gia pháp, trong mường tượng của nhiều người cũng tựa như một cây roi bên cạnh bàn thờ tổ tiên, không dùng để đánh mắng con cái bao giờ nhưng lúc nào cũng có tác dụng nhắc nhở, răn đe, hướng dẫn con cháu trở về con đường đúng đắn. Nghe những điều này có vẻ hơi hoài cổ. Nhưng càng hiện đại thì càng cần phải sàng lọc và gìn giữ những nếp nhà, tuy xưa cũ nhưng vẫn còn nguyên giá trị. Từ nếp nhà này cộng với những giá trị phổ quát từ thế giới mới có thể hình thành một “gia đạo hội nhập” cho con cháu thời nay. Gia đạo là những thứ mà một gia đình đã dày công tạo dựng và lưu truyền qua nhiều thế hệ để hình thành nên bản sắc của chính gia đình ấy. Gia đạo là việc nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc lớn lên với lời cha dặn: “Nghệ sĩ chân chính thì không hơn thua nhau nơi cánh gà”. Gia đạo cũng là việc có những bạn thủ khoa chia sẻ: “Em được may mắn sinh ra trong một gia đình hiếu học”. Hay có lúc gia đạo chỉ đơn giản là việc một cô nhân viên nổi trội và được yêu mến trong tổ chức vì luôn tâm niệm lời mẹ dạy: “Ở nhà với mẹ thì sao cũng được, nhưng ra đường thì phải luôn nhớ: Ăn thì nhường mà làm thì giành”. Gia đạo, một cách văn vẻ, là những giá trị làm nên một gia đình, là những thứ mà vì nó và để bảo vệ nó, các thành viên sẵn lòng hi sinh mọi thứ khác. Gia đạo sẽ làm một gia đình được kính trọng hoặc bị coi khinh. Đó cũng là thứ làm cho những đứa con sinh ra, lớn lên và cảm thấy tự hào về gia đình mình. Đó không phải là bố làm lớn, mẹ nhiều tiền hay gia thế lẫy lừng, nhà to, xe xịn, mà là những kỷ cương cần thiết, những giá trị vô hình đủ đẹp để mọi thành viên trong gia đình theo đuổi và làm gương cho con cháu. Lớn lên trong một gia đạo như thế, khó ai có thể phản bội niềm tin, giá trị, truyền thống của gia đình mình. Nếu chúng ta không thể thay đổi được cả xã hội hay cả tổ chức thì ít nhất chúng ta cũng có thể quyết định việc thay đổi bản thân mình và thay đổi gia đình mình thông qua việc tái xác lập gia đạo. Và đến lượt chính gia đạo này sẽ quyết định số phận tương lai của gia đình và cả các thế hệ con cháu mai sau của chúng ta. Bài: Giản Tư Trung. TT

Bài này rất hay các bạn à

Đến giờ này nhiều người trong chúng ta đều đã quá quen thuộc với những câu văn, cụm từ như “sẽ xử lý nghiêm bất kể đó là ai” hoặc “không có vùng cấm trong xử lý...” và còn nhiều cụm từ, câu văn khác nữa vốn đã và đang được dùng đi dùng lại thành sáo ngữ khiến ai cũng có cảm giác nhàm chán khi nghe đến. Xét về mặt lịch sử, sáo ngữ hay “ngôn ngữ gỗ” (lange de boyse) đã xuất hiện từ thế kỷ 16 tại nước Anh nhưng sau đó được dùng nhiều trong thời Liên Xô cũ. Khi bàn về sáo ngữ, người ta nhận thấy loại ngôn ngữ này thường xuất hiện trong lĩnh vực chính trị và tất nhiên việc sử dụng loại ngôn ngữ này là một “biệt tài” của các chính trị gia, bởi nó là một trong những kỹ thuật dùng để lái hiện thực sang một hướng khác nhằm đánh lạc hướng nội dung lẽ ra cần phải được đề cập. Do đó gần như tất cả người tham gia hoạt động chính trị đều thuộc nằm lòng những “công thức” phát biểu cho từng loại vấn đề, từng loại sự việc. Tại sao giới chính trị gia hay sử dụng sáo ngữ? Trả lời câu hỏi này quả thật là điều không hề dễ dàng, nhưng việc sử dụng loại ngôn ngữ này trước hết có thể là một sự phản ánh của tình trạng bất lực trong giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như việc xử lý sai phạm đối với những quan chức cấp cao luôn gặp nhiều khó khăn, do đó cách nói chung chung như “xử lý nghiêm bất kể đó là ai” là một cách nói nhằm trấn an dư luận hơn là có giá trị hiện thực trên thực tế. Và chúng ta cũng thấy những câu nói kiểu như vậy thường chỉ xuất hiện ở giai đoạn đầu của một sự việc nào đó, còn khi kết thúc thì có được xử lý nghiêm hay không, có vùng cấm hay không là chuyện khác, bởi lúc đó công luận cũng không còn quan tâm hay thắc mắc về việc có nghiêm hay không nghiêm nữa. Mặt khác, sáo ngữ còn là một ẩn chứa cho việc thiếu khả năng xác định đâu là sự việc cần ưu tiên trước, ưu tiên sau trong việc hoạch định chính sách của những cơ quan có trách nhiệm. Chính vì vậy có lúc người ta đã nói về cách làm chính sách theo kiểu “múi mít” vì cái nào cũng thuộc loại “trọng tâm”, “quan trọng nhất”, “hàng đầu”, “then chốt”... cả. Tất nhiên cách nói như thế sẽ khiến những thành phần có liên quan hay bị tác động cảm thấy vui tai, cảm thấy được an toàn về mặt tâm lý vì dù sao chính sách liên quan tới mình cũng thuộc loại “hàng đầu” hoặc “trọng tâm”. Tất nhiên, sáo ngữ cũng có tác dụng tốt khi nói về một số vấn đề liên quan đến quan hệ quốc tế, vì thông thường nội dung của những phát biểu kiểu “ngôn ngữ gỗ” thường là “hòa cả làng” và như vậy sẽ không làm mất lòng bất cứ bên nào. Thế nhưng việc dùng quá nhiều sáo ngữ sẽ có tác dụng ngược trong cai trị và điều hành bởi dần dần dân chúng sẽ không còn lòng tin, không tin tưởng vào những phát biểu của giới lãnh đạo nữa. Chính vì vậy hiện nay dư luận thường ít quan tâm đến những ngôn từ được liệt vào loại “chém gió” nữa bởi chỉ mang lại sự “sảng khoái tâm lý” nhất thời, cái mà họ muốn thấy đó là làm thật sự trên thực tế. Làm sao để sáo ngữ ngày càng ít hiện diện trong thực tế? Một số cách đã có xuất hiện như mục “chuyện ấy bây giờ” trên tờ Tuổi Trẻ nhằm xới lại những vấn đề cũ xem chúng được giải quyết, xử lý thế nào, sẽ buộc người có trách nhiệm phải “có trách nhiệm” trên thực tế nhiều hơn và từ đó có thể sẽ buộc họ giảm dần những phát biểu sáo ngữ trong tương lai. (Nguồn: Tuổi trẻ, bài: Lê Minh Tiến)